Website số 1 về Phong thủy - Xem bói - Xem ngày – Kinh dịch - Tâm linh Tư vấn chọn sim hợp tuổi, sinh con giúp bạn cải vận, hút tài lộc, sự nghiệp thăng tiến Fanpage: Xemvm.com - Zalo: 0926.138.186 - Hotline: 0926.138.186
Giải mã bí ấn trật tự sắp xếp 64 quẻ dịch và luận giải ý nghĩa từng quẻ
Thứ bảy - 26/12/2020 21:29
64 quẻ Dịch mở đầu với quẻ Thuần Càn rồi đến quẻ Thuần Khôn…và kết thúc ở quẻ Hỏa Thủy Vị Tế không phải là sự sắp xếp ngẫu nhiên mà ẩn chứa nhiều huyền cơ. Bài viết này sẽ giải mã bí ấn trật tự sắp xếp 64 quẻ kinh dịch.
Luận giải ý nghĩa cát hung 64 quẻ trong chiêm đoán dịch
1. Giải mã bí ấn trật tự sắp xếp 64 quẻ dịch
Sự sắp xếp của 64 quẻ “Chu Dịch” khởi đầu ở hai quẻ: Càn (Thuần Càn), Khôn (Thuần Khôn), tức từ Càn là trời, Khôn là đất, có trời đất sau đó mới có vạn vật. Đó là tư tưởng chỉ đạo cho sự sắp xếp tiếp theo. Sách “Từ quái truyện” khi giải thích 64 quẻ, đã chia 64 quẻ thành “Thượng kinh” và “Hạ kinh”. “Thượng kinh” bắt đầu từ đạo trời, “Hạ kinh” bắt đầu từ quan hệ giữa con người với nhau.
Thượng kinh nói: tượng quẻ Càn tượng trưng cho trời là quẻ mở đầu trong kinh dịch có ý nghĩa là trời là gốc rễ vĩ đại sáng tạo ra vạn vật, thông hành không có trở ngại gì, cát tường thuận hòa, ngay thẳng chính trực và kiên định không thay đổi. Tiếp theo là tượng quẻ Khôn tượng trưng cho đất. Có Trời (Càn), có Đất (Khôn) rồi vạn vật mới sinh và lúc mới sinh là lúc khó khăn nhất nên là quẻ Truân (Thủy Lôi Truân). Truân là muôn vật mới sinh, tất nhiên vạn vật còn non nớt, mờ tối, cho nên tiếp theo là quẻ Mông (Sơn Thủy Mông). Mông là còn trong bóng tối, trong manh nha. Vạn vật manh nha thì không thể không nuôi dưỡng, cho nên tiếp theo là quẻ Nhu (Thủy Thiên Nhu). Nhu có nghĩa là phải được ăn uống, ăn uống tất sẽ có sự tranh giành, nên tiếp theo sẽ là quẻ Tụng (Thiên Thủy Tụng). Cá nhân bất hòa sẽ sinh kiện tụng. Quốc gia bất hòa cùng nhau, sẽ sinh chinh chiến. Tranh giành tất sẽ kết thành bầy, nên tiếp theo là quẻ Sư (Địa Thủy Sư). Sư có nghĩa là theo nhau. Bầy đông tất sẽ dựa vào nhau nên tiếp theo sẽ là quẻ Tỷ (Thủy Địa Tỷ). Tỷ có nghĩa là thân cận với nhau. Thân ái giúp đỡ nhau tất sẽ có sự xúm tụ lại nên tiếp theo là quẻ Tiểu Súc (Phong Thiên Tiểu Súc). Súc có nghĩa là tích tụ lại, khi vạn vật đã có sự tích tụ thì phải có lễ nghĩa tiết chế, cho nên tiếp theo là quẻ Lý (Thiên Trạch Lý). Lý có nghĩa là lễ nghĩa âm nhạc. Có lễ nghĩa rồi sẽ yên bình, nên tiếp theo là quẻ Thái (Địa Thiên Thái). Thái có nghĩa là thông thương. Nhưng vạn vật không thể thông thương từ đầu đến cuối, nên tiếp theo là quẻ Bĩ (Thiên Địa Bĩ). Bĩ có nghĩa là hỏng, là trắc trở. Vạn vật lại không thể trắc trở từ đầu chí cuối nên tiếp theo là quẻ Đồng Nhân (Thiên Hỏa Đồng Nhân). Có thể chung sống hài hòa với con người, nên vạn vật phải qui thuận, do đó tiếp theo là quẻ Đại Hữu (Hỏa Thiên Đại Hữu). Người có sự nghiệp lớn thì không được tự mãn, nên tiếp theo là quẻ Khiêm (Địa Sơn Khiêm). Người có sự nghiệp lớn mà còn khiêm tốn thì việc gì cũng làm được, do đó rất yên vui, nên tiếp theo là quẻ Dự (Lôi Địa Dự). Người có thể khiến dân yên vui, tất nhiên là ai cũng tìm đến, nên tiếp theo là quẻ Tùy (Trạch Lôi Tùy). Niềm vui cũng làm lung lạc con người làm cho họ chìm đắm trong yên vui, tất nhiên sẽ phát sinh sự chia rẽ, nên tiếp theo là quẻ Cổ (Sơn Phong Cổ). Cổ có nghĩa là hủ bại, phát sinh sự chia rẽ. Phát sinh chia rẽ, sau đó lại mới có thể sáng tạo sự nghiệp lớn nên tiếp theo là quẻ Lâm (Địa Trạch Lâm). Lâm có nghĩa là lấy lớn thống trị nhỏ, ý là lớn. Sau khi lớn, có đầy đủ điều kiện để so sánh, trao đổi với nhau, nên tiếp theo là quẻ Quan (Phong Địa Quan). Đủ điều kiện để trao đổi học tập lẫn nhau nên khiến cho mọi người ngưỡng mộ, nên tiếp theo là quẻ Phệ Hạp (Hỏa Lôi Phệ Hạp). Hạp có nghĩa là hợp nhưng vạn vật không thể tùy tiện kết hợp với nhau nên tiếp theo là quẻ Bí (Sơn Hỏa Bí). Bí có nghĩa là văn vẻ, trau chuốt. Nhưng văn vẻ, trau chuốt quá sẽ mất tính chân thực, gây ra tổn hại cho cái chung, tức sự hanh thông đã đến chỗ tận cùng, do đó tiếp theo là quẻ Bác (Sơn Địa Bác). Bác có nghĩa là tróc rụng từng mảng. Rụng đến tận cùng lại trở thành từ trên quay về xuống tận dưới, nên tiếp theo là quẻ Phục (Địa Lôi Phục), lần nữa trở lại cái thực tức không phải là điều hư vong nữa, nên tiếp theo là quẻ Vô Vọng (Thiên Lôi Vô Vọng). Sau Vô Vọng sẽ là quẻ Súc (Sơn Thiên Đại Súc). Vật chất sau khi tích tụ lại có thể nuôi dưỡng, nên tiếp theo là quẻ Di (Sơn Lôi Di). Di có nghĩa là nuôi. Không nuôi dưỡng thì không thể lớn lên, nhưng ngược lại có thể bị nuôi dưỡng quá mức, nên tiếp theo là quẻ Đại Quá (Trạch Phong Đại Quá). Vạn vật không thể lúc nào cũng bị nuôi dưỡng quá, nên tiếp theo là quẻ Khảm (Thuần Khảm). Khảm có nghĩa là trũng vào, rơi vào. Vật bị trũng lõm tất nhiên phải được bồi đắp, nên tiếp theo là quẻ Ly (Thuần Ly). Ly có nghĩa là đẹp, là bồi đắp vào cho đẹp để vươn lên.
Hạ Kinh nói: sau khi có trời đất mới có vạn vật, có vạn vật mới chia thành đực, cái, với con người gọi là nam, nữ. Có nam nữ sau đó mới có vợ chồng. Tượng quẻ Hàm (Trạch Sơn Hàm) tượng trưng cho vợ chồng. Có vợ chồng sau đó mới có cha con. Có cha con xã hội mới có quan hệ cha con, xây dựng thể chế quân thần. Có thể chế quân thần thì xã hội mới chia đẳng cấp trên dưới. Có đẳng cấp trên dưới sau đó mới xây dựng và thực thi lễ nghĩa.
Quan hệ vợ chồng không thể không lâu dài, cho nên sau quẻ Hàm là quẻ Hằng (Lôi Phong Hằng). Hằng nghĩa là lâu. Nhưng vạn vật không thể giữ mãi nguyên hiện trạng mà không biến hóa, cho nên tiếp sau đó là quẻ Độn (Thiên Sơn Độn). Độn có nghĩa là lùi tránh, nhưng vạn vật không thể khi nào cũng lùi tránh nên tiếp theo là quẻ Đại Tráng (Lôi Thiên Đại Tráng). Tráng là hưng thịnh, đại tráng có nghĩa là hưng thịnh, lớn mạnh. Tiếp sau Đại Tráng là quẻ Tấn (Hỏa Địa Tấn). Tấn có nghĩa là tiến lên, tiến lên thì có lúc bị thương tổn nên tiếp theo là quẻ Minh Di (Địa Hỏa Minh Di). Di có nghĩa là bị thương, đi ra bị thương tất phải quay về nhà, nên sau đó là quẻ Gia Nhân (Phong Hỏa Gia Nhân). Khi đã đi vào con đường cùng, hành vi tất nhiên sẽ có hiện tượng phản ngược lại, nên tiếp theo là quẻ Khuê (Hỏa Trạch Khuê). Khuê có nghĩa là phản nghịch lại. Phản nghịch tất nhiên sẽ gặp tai nạn, nên sau đó là quẻ Kiển (Thủy Sơn Kiển), Kiển có nghĩa là tai nạn. Vạn vật không thể luôn gặp tai nạn, mà có lúc sẽ được giải thoát nên tiếp theo là quẻ Giải (Lôi Thủy Giải). Giải là giải trừ, hòa hoãn. Hòa hoãn tất nhiên là sẽ có tổn thất nên tiếp theo là quẻ Tổn (Sơn Trạch Tổn). Vạn vật không thể mãi hao tổn nên tiếp theo là quẻ Ích (Phong Lôi Ích). Ích có nghĩa là tăng lợi ích, nhưng vạn vật không ngừng tăng lên tất nhiên sẽ có chỗ xung vỡ, nên tiếp theo là quẻ Quải (Trạch Thiên Quải). Quải có nghĩa là xung vỡ, sau sự xung vỡ tất nhiên sẽ có sự gặp gỡ nên tiếp theo là quẻ Cấu (Thiên Phong Cấu). Cấu có ý là không hẹn mà gặp. Vạn vật sau khi gặp gỡ sẽ tụ tập lại, nên tiếp theo là quẻ Tụy (Trạch Địa Tụy). Tụy là nhóm lại, tụ lại. Tụ lại sẽ dần dần lên cao, nên tiếp theo là quẻ Thăng (Địa Phong Thăng). Không ngừng lên cao sẽ rơi vào tình trạng tiến thoái khó khăn tất nhiên sẽ đi xuống, nên tiếp theo là quẻ Khốn (Trạch Thủy Khốn). Lên cao gặp khó khăn tất nhiên sẽ đi xuống, nên tiếp theo là quẻ Tỉnh (Thủy Phong Tỉnh). Tỉnh là giếng, Giếng đã để lâu ngày, bùn đất sẽ ứ đọng nên nếu không thau luôn cho sạch thì nước sẽ đục, nên cần đổi mới luôn, do đó tiếp theo là quẻ Cách (Trạch Hỏa Cách). Cách là thay đổi cái cũ, Khiến cho vật luôn đổi mới, không gì bằng Đỉnh (vạc), đỉnh dùng để nấu ăn, nó có thể thay đổi mùi vị thức ăn nên tiếp theo là quẻ Đỉnh (Hỏa Phong Đỉnh). Đỉnh là đồ tế khí, tế lễ tổ tiên là trách nhiệm của con trai trưởng nên tiếp theo là quẻ Chấn (Thuần Chấn). Quẻ Chấn tượng trưng cho con trai trưởng, chấn nghĩa là động. Vạn vật không thể luôn luôn động vì sự đời động mãi, cũng có lúc phải ngưng, biến dịch mãi cũng có lúc phải kết thúc nên tiếp theo là quẻ Cấn (Thuần Cấn). Cấn có nghĩa là dừng. Nhưng vạn vật cũng không thể dừng mãi, nên tiếp theo là quẻ Tiệm (Phong Sơn Tiệm). Tiệm là tiến, tiến lên tất phải có thu về nên tiếp theo là quẻ Quy Muội (Lôi Trạch Quy Muội). Được sự thu về tốt tất sẽ mạnh lên nên tiếp theo là quẻ Phong (Lôi Hỏa Phong). Phong là lớn mạnh. Lớn mạnh đến cực điểm tất nhiên sẽ không yên vị ở vị trí cũ, nên tiếp theo là quẻ Lữ (Hỏa Sơn Lữ). Lữ hành không tìm thấy chỗ dung thân thì phải tìm cách vào đâu đó, nên tiếp theo là quẻ Tốn (Thuần Tốn). Tốn có nghĩa là đi vào, sau khi tiến vào sẽ vui mừng nên tiếp theo là quẻ Đoài (Thuần Đoài). Đoài nghĩa là vui mừng. Vui mừng sẽ xua tan buồn bực nên tiếp theo là quẻ Hoán (Phong Thủy Hoán). Hoán có nghĩa là ly tán. Vạn vật không thể ly tán mãi, cần phải được tiết chế nên tiếp theo là quẻ Tiết (Thủy Trạch Tiết). Sau quẻ Tiết là quẻ Trung Phu (Phong Trạch Trung Phu), vì lẽ đã lập ra tiết chế, kỷ cương, thì trên dưới đều phải thực thi áp dụng, như vậy mới vẹn tín nghĩa. Sau quẻ Trung Phu sẽ là quẻ Tiểu Quá (Lôi Sơn Tiểu Quá). Quá tức là vượt qua. Có thể vượt qua điều thường tình mới đủ sức làm việc lớn, nên tiếp theo là quẻ Ký Tế (Thủy Hỏa Ký Tế) vì hễ mình có cái gì hơn người, rồi ra sẽ giúp được người, sẽ làm nên chuyện. Quẻ Vị Tế (Hỏa Thủy Vị Tế) ở sau quẻ Ký Tế, và là quẻ cuối cùng 64 quẻ Dịch, có một ý nghĩa sâu sa. Thánh Hiền không để quẻ Ký Tế kết thúc bộ Kinh Dịch, mà lại để quẻ Vị Tế, là cốt cho ta thấy sự đời vô cùng, vô tận, trí con người khó mà lường được, mà giới hạn được. Sự đời biến dịch chẳng cùng: Trị mà sơ hở, sẽ sinh loạn. Cho nên, cuối quẻ Dịch, Thánh nhân để quẻ Vị Tế, muốn khuyên ta đừng bao giờ ngừng cố gắng, đừng bao giờ quên lo liệu, đề phòng.
Kinh dịch đến đây kết thúc, tượng trưng cho đạo trời tuần hoàn mãi, việc ở đời cũng tuần hoàn vô tận.
2. Luận về tượng kinh dịch qua 8 cung
Từ tượng củaKinh dịch mà xét ta thấy ngoài sự chú trọng đến tượng trời, tượng của vật, còn chú trọng đến tượng người (hiện tượng xã hội). Phản ánh đạo trời vì sự vận hành của mặt trời, mặt trăng và quả đất thể hiện chu kỳ tuần hoàn quay vòng tròn. Do đó khí hậu của tự nhiên sản sinh ra sự tăng trưởng và tiêu giảm của âm dương, tính tuần hoàn của chu kỳ ngày đêm, nóng lạnh. Phản ánh trong tượng vật là sự quay tròn: sinh, trưởng, tốt tươi, khô héo, chết. Phản ánh trong tượng người là động thái: sinh, trưởng, lớn mạnh, già, chết, lặp đi lặp lại. Cho nên mới nói tượng quẻ kinh dịch có thể được xem là hình ảnh thu nhỏ của mối quan hệ giữa 3 tượng: trời, người, vật. “Vật tụ theo bầy, người tụ theo nhóm”. Vạn vật tuy khác biệt nhau nhưng nếu phân chia chúng theo những đặc tính chung, qui nạp chúng dựa trên công năng và mối liên hệ giữa các động thái, hành vi của sự vật để phân loại thành “tượng”. Có thể chia 64 quẻ dịch thành 8 tượng hay 8 nhóm quẻ chính như sau:
Nếu bạn thấy bài viết này bổ ích hãy like, share bài viết và fanpage“Xemvm.com”để ủng hộ chúng tôi và chia sẻ kiến thức hay cho bạn bè của bạn. Vui lòng ghi rõ nguồn website xemvm.com khi bạn trích dẫn nội dung từ bài viết này. Cám ơn bạn rất nhiều!
Nếu bạn có bất cứ câu hỏi hoặc ý kiến góp ý để bài viết hoàn thiện hơn vui lòng gửi email vềinfo@xemvm.com hoặc để lại một bình luận bên dưới để chúng ta có thể thảo luận thêm!
Tác giả bài viết: Thầy Uri – Chuyên gia dịch học của xemvm.com
Nguồn tin: Tổng hợp từ sách, báo về mai hoa kinh dịch
Nếu bạn thấy bài viết này bổ ích hãy ấn nút chia sẻ (share) bên dưới để ủng hộ chúng tôi và chia sẻ kiến thức hay cho bạn bè của bạn. Đừng quên truy cập fanpage“Xemvm.com” để cập nhật các bài viết và các chương trình khuyến mãi mới nhất. Cám ơn bạn rất nhiều!
Phần mềm xem bói dãy số bất kỳ của số tài khoản ngân hàng, số CCCD, số CMT, số thẻ ATM, số sổ bảo hiểm xã hội… Chỉ cần nhập vào một dãy số và bát tự (giờ ngày tháng năm sinh) của bạn rồi kích vào “Luận giải”, hệ thống sẽ luận giải phân tích cát hung dãy số theo âm dương, ngũ hành, thiên thời (vận khí), phối quẻ theo mai hoa dịch số để tính ra quẻ chủ, quẻ hỗ, quẻ biến, hào động, tính tổng nút dãy số, tính hung cát 4 số cuối theo 81 linh số… Hãy thử một lần để cảm nhận sự khác biệt so với các phần mềm xem bói dãy số khác.
Xem bói dãy số
Nếu bạn có bất cứ câu hỏi hoặc ý kiến góp ý để bài viết này… hoàn thiện hơn vui lòng để lại một bình luận bên dưới để chúng ta có thể thảo luận thêm!