“Khi chim sắt bay trên không trung (tức máy bay), ngựa sắt chạy trên đất (tức tàu hỏa và xe hơi) thì đó là thời đại mạt Pháp đến.... Đàn ông trở nên thô tục, buông thả. Đàn bà không còn trong sạch nữa. Các tu sĩ không giữ giới và đức hạnh…Thiên lý bị đảo lộn, gây ra dịch bệnh, nạn đói và chiến tranh làm khủng hoảng đời sống thế gian”. Đó là lời tiên tri của đại sư Liên Hoa Sinh của Tây Tạng về tương lai nhân loại hiện đại.
Đức Liên Hoa Sinh còn dự ngôn rằng: vào thời mạt Pháp đó, rất nhiều người xuất gia truy cầu danh lợi, họ tích lũy tài sản nhưng không làm Phật sự, không tụng kinh văn mà đắm chìm trong ca múa giải trí, phá giới mà trong tâm không hổ thẹn.
Nhà tiên tri nổi tiêng của Trung Quốc, Lưu Bá Ôn cũng đưa ra dự đoán vào thời kỳ mạt pháp “Kẻ nghèo một vạn lưu một ngàn, kẻ giàu một vạn lưu hai ba.
Giàu nghèo nếu không hồi tâm chuyển, nhìn xem ngày chết ở nhãn tiền”
Sấm Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm của Việt Nam cũng có tiên tri tương tự rằng:
“Mười phần chết bảy còn ba
Chết hai còn một mới ra thái bình”
“Người làm việc thiện thì được thấy, kẻ làm việc ác không được xem.
Trên đời có người hành Đại Thiện, gặp kiếp nạn này cũng bình an”
Như vậy chúng ta đang sống trong thời gian cuối cùng của thời kỳ mạt pháp khi mà đạo đức nhân loại suy đồi, bại hoại đến cùng cực, đại nạn sắp đến chỉ có hành thiện tích đức thì mới được bình an vượt qua kiếp nạn. Với mong muốn góp một phần nhỏ bé truyền bá tư tưởng phật pháp đến cho những ai hữu duyên có thể đọc được từ đó giác ngộ đắc được cơ duyên vạn cổ để có thể vượt qua thời kì mạt Pháp này, Xemvm.com xin hân hạnh giới thiệu tới độc giả cuốn sách truyện cổ Phật giáo của nhà xuất bản Liên Phật Hội. Kích vào link sau:
https://xemvm.com/thu-vien-ebooks/sach-phat-giao/link-tai-sach-truyen-co-phat-giao-pdf-7.html
để tải về Ebook Sách Truyện Cổ Phật Giáo hoặc liên hệ Zalo: 0926.138.186 để nhận trực tiếp file pdf.
Sau đây là Câu chuyện về Tinh xá và thiên cung được trích từ Cuốn “Truyện Cổ Phật Giáo” (Nguyên tác: Phật giáo cố sự đại toàn) của nhà xuất bản Liên Phật Hội
Xá-lợi-phất là một trong các vị đệ tử hàng đầu của đức Phật. Từ khi ngài bỏ ngoại đạo về quy y Phật thì tăng đoàn lớn mạnh thêm rất nhiều, vì ngài đã dẫn theo cả một đồ chúng rất đông đảo cùng lúc xuất gia theo Phật.
Đức Phật rất tin tưởng vào nhân cách cũng như năng lực của ngài. Lần đầu tiên khi cần có người trong tăng đoàn đến miền bắc Ấn Độ để hoằng pháp và trông coi công trình xây dựng tinh xá Kỳ Viên, chính ngài là người được đức Phật giao cho trọng trách đó.
Nguyên do là ở nước Ma-kiệt-đà, miền nam Ấn Độ, đã có tinh xá Trúc Lâm, nhưng còn ở miền bắc thì hai năm sau khi đức Phật thành đạo vẫn chưa có địa điểm thuận lợi nào làm cơ sở cho Ngài thuyết pháp.
Một hôm, nhân duyên xui khiến trưởng giả Tu-đạt ở thành Xá-vệ nước Kiêu-tát-la đến miền nam thăm người thân, được diện kiến thánh nhan của đức Phật, bèn xin quy y và tự nguyện phát tâm xây dựng một tinh xá ở miền bắc cúng dường đức Phật, để nước pháp cam-lồ được ban rải khắp mọi nơi.
Trưởng giả Tu-đạt ở thành Xá-vệ, sau khi mua được vườn hoa của thái tử Kỳ-đà bằng cách dùng vàng trải đầy mặt đất, bèn xin đức Phật phái một người đến thiết kế và chỉ dẫn việc xây cất tinh xá tại đấy.
Đức Phật biết rằng khi Phật pháp còn chưa truyền đến miền bắc thì người dân ở đó đa phần đều tin theo ngoại đạo. Vì thế, người được phái đến miền bắc không những phải lo việc xây cất tinh xá mà còn phải có khả năng hàng phục đồ chúng của ngoại đạo nữa. Vì lý do đó mà đức Phật đã chọn ngài Xá-lợi-phất để giao nhiệm vụ theo trưởng giả Tu-đạt về thành Xá-vệ.
Quả thật vậy, tinh xá bắt đầu xây dựng chưa bao lâu thì ma nạn đã bắt đầu xảy tới.
Rất nhiều ngoại đạo ganh tức với Phật giáo đang phát triển, bèn kéo đến yêu cầu trưởng giả Tu-đạt phải bỏ ngay ý định xây dựng tinh xá cúng dường đức Phật và còn bảo ông không được tin theo đức Phật nữa.
Trưởng giả Tu-đạt vốn đã được tiếp nhận hồng ân của pháp Phật nên không màng đến những lời của ngoại đạo. Vì thế ngoại đạo bèn nghĩ đến việc tranh luận cùng đệ tử của đức Phật, tức là ngài Xá-lợi-phất. Họ nghĩ là nhờ vào số đông sẽ có thể hạ bệ Phật giáo ở miền bắc ngay từ buổi đầu và khiến cho trưởng giả Tu-đạt thay đổi ý định.
Nghe tin này, trưởng giả Tu-đạt rất kinh hoàng. Ông nghĩ rằng, làm sao một mình ngài Xá-lợi-phất có thể tranh biện nổi với số đông ngoại đạo như thế?
Lòng nặng trĩu ưu tư, trưởng giả Tu-đạt đành phải chuyển đến ngài Xá-lợi-phất lời yêu cầu của bọn ngoại đạo. Không ngờ khi nghe tin thì ngược lại, ngài Xá-lợi-phất rất vui mừng, vì thấy rằng đây là cơ hội tốt nhất để ngài tuyên dương Chánh pháp.
Sau khi định ước xong về thời gian và địa điểm của ngày đại hội tranh biện, phía ngoại đạo bèn chọn ra mười vị luận sư xuất sắc nổi danh nhất để đối phó với mỗi một mình ngài Xá-lợi-phất.
Nhưng sự lo lắng của trưởng giả Tu-đạt thật ra là hoàn toàn không cần thiết, vì cho dù về mặt số lượng thì các luận sư ngoại đạo là đông đảo, còn phía Phật giáo chỉ có mỗi một mình ngài Xá-lợi-phất, nhưng về mặt thực lực tranh biện thì đừng nói gì mười vị luận sư này, mà dẫu có đến ngàn vạn luận sư ngoại đạo cũng không phải là đối thủ tranh biện của ngài Xá-lợi-phất.
Vì sao vậy? Vì trong hàng đệ tử Thanh văn của đức Phật, ngài Xá-lợi-phất là bậc trí tuệ đệ nhất, không ai sánh bằng. Ngài xuất thân từ một gia đình danh tiếng thuộc dòng Bà-la-môn, ông nội và cha ngài đều là những vị luận sư Bà-la-môn nổi danhBà-la-môn, là những vị học giả lỗi lạc nhất của toàn cõi Ấn Độ thời ấy.
Nói về kiến thức thế gian, ngài Xá-lợi-phất, tinh thông tất cả các mọi kinh điển, luận thư của ngoại đạo. Nhưng còn hơn thế nữa, hiện nay ngài đã đạt được trí huệ giải thoát nhờ chứng đắc thánh quả A-la-hán. Vì thế, việc ngài Xá-lợi-phất đứng ra tranh biện với ngoại đạo thật ra là một sự kiện có thể hoàn toàn thấy trước được kết quả.
Quả thật như vậy, vào ngày tranh biện ấy ngài Xá-lợi-phất đã toàn thắng một cách thuyết phục. Rất nhiều đồ chúng ngoại đạo sau khi được nghe cuộc tranh biện đã xin quy y với ngài Xá-lợi-phất, từ bỏ ngoại đạo để nương về với Chánh phápThích-ca Mâu-ni.
Phật giáo khi ấy tuy hãy còn ở miền nam mà ánh sáng Chánh pháp đã bắt đầu được chiếu rọi đến miền bắc. Số người ngoại đạo nhờ sự thức tỉnh của ngài Xá-lợi-phất mà quay về quy y Phật lên đến cả ngàn vạn người.
Lúc ấy trưởng giả Tu-đạt mới thở phào một tiếng nhẹ nhõm. Ông hết sức khâm phục trí tuệ của ngài Xá-lợi-phất và lại càng tin tưởng hơn vào giáo pháp của đức Phật.
Công trình xây cất tinh xá Kỳ Viên tiến hành rất mau lẹ. Theo sự thiết kế của ngài Xá-lợi-phất thì có 16 điện chỉ dành làm nơi đại chúng vân tập, lại có ba trăm căn phòng lớn, sáu mươi ba nơi thiền phòng an tịnh; ngoài ra cũng có đầy đủ các tịnh thất mùa đông, nhà trú mùa hạ, thảy thảy đều riêng biệt; nhà trù, phòng tắm, chỗ rửa chân, nhà xí... không thiếu gì cả.
Khi tinh xá xây dựng gần xong, ngài Xá-lợi-phất nói với trưởng giả Tu-đạt:
– Trưởng giả Tu-đạt, ông nhìn xem trong không trung hiện giờ vừa có gì xuất hiện vậy?
Trưởng giả Tu-đạt nhìn lên rồi thất vọng trả lời:
– Bạch tôn giả, tôi không nhìn thấy gì cả.
– Điều đó không có gì lạ, vì mắt thường không thể nhìn thấy những hiện tượng như thế. Bây giờ, nương vào thần lực thiên nhãn của tôi, ông hãy thử nhìn xem một lần nữa.
Trưởng giả Tu-đạt ngước mắt nhìn rồi mừng rỡ reo lên:
– Bạch tôn giả, tôi thấy có rất nhiều cung điện nguy nga tráng lệ!
– Đó toàn là những cung điện của trời Lục dục, do việc ông cúng dường tinh xá cho đức Phật thuyết pháp nên ứng hiện. Tuy tinh xá ở đây xây dựng chưa xong nhưng ở trời Lục dục thì cung điện phước báo của ông đã hoàn tất.
– Xin hỏi tôn giả, cõi trời Lục dục có quá nhiều cung điện như thế, tương lai tôi nên sinh về cõi trời nào là tốt nhất?
Tôn giả Xá-lợi-phất giải thích:
– Cõi trời Đao-lợi có thọ mệnh rất lâu dài, cư dân ở đó đều biết tu hành, chuyên cần thực hành Phật đạo, rất khó bị đọa lạc. Ông nên phát nguyện sinh về đó.
– Vậy tôi nguyện sẽ sinh về cõi trời Đao-lợi!
Khi trưởng giả Tu-đạt vừa phát nguyện như thế thì tất cả các cung điện khác liền từ từ ẩn mất, chỉ còn lại cung điện của cõi trời Đao Lợi là thêm phần huy hoàng lộng lẫy trước mắt ông.
Suốt cả một đời, chưa bao giờ trưởng giả Tu-đạt vui mừng như lần ấy!
Hãy ủng hộ website bằng cách truy cập lịch vạn niên trên xemvm.com. Lịch vạn niên của chúng tôi không chỉ có các tính năng cơ bản như đổi lịch dương sang lịch âm, lịch can chi, lịch tiết khí, xem ngày giờ Hoàng Đạo – Hắc Đạo, xem ngày theo Ngọc hạp thông thư, xem ngày theo nhị thập bát tú mà còn có nhiều tính năng nâng cao khác như xem ngày xung khắc với tuổi, xem ngày theo Kinh Kim Phù, Xem ngày theo Lục Diệu, xem ngày theo Đổng Công tuyển nhật (12 trực), Bành Tổ kỵ nhật, xem ngày xuất hành theo Khổng Minh, chọn hướng tốt xuất hành, xem giờ tốt theo Lý Thuần Phong, Quỷ Cốc Tử, xem ngày tốt xấu theo dân gian…nên vinh dự được độc giả bình chọn là phần mềm lịch vạn niên số 1 hiện nay. Phiên bản lịch vạn niên 2023 hoàn toàn mới của chúng tôi không những giao diện đẹp, dễ sử dụng mà còn luận giải chính xác và chi tiết từng mục giúp độc giả dễ dàng lựa chọn được ngày tốt, giờ đẹp để khởi sự công việc. Hãy thử một lần để cảm nhận sự khác biệt so với các phần mềm lịch vạn sự khác.
Lịch vạn niên - Chọn giờ tốt ngày đẹp
Con bạch Thầy! Trong kinh nói: quy y Phật bất đọa địa ngục, quy y Pháp bất đọa ngạ quỷ, quy y Tăng bất đọa bàng sanh. Người Phật tử sau khi quy y, không còn đọa vào các loài nầy nữa, tức không đọa vào Tam đồ, tất nhiên sẽ sanh vào cảnh giới an vui. Như thế, thì tại sao người Phật tử sau khi chết lại thỉnh chư Tăng Ni tụng kinh cầu siêu? Như vậy có chống trái hay không?
@Ngô Văn Nhi Tôi xin được trích dẫn câu trả lời từ cuốn sách “100 Câu Hỏi Phật Pháp Tập I” của Tỳ Kheo Thích Phước Thái cho câu hỏi này để bạn tham khảo: Thật ra không có gì là chống trái. Trong kinh nói về Tam quy y ở trên, không có nghĩa là ám chỉ cho con người sau khi chết mới không bị sa đọa. Nếu chúng ta hiểu như thế, mới là chống trái lại với ý kinh. Kinh nói rất rõ. Muốn hiểu được nghĩa lý trên, chúng ta cần phải hiểu rõ về ý nghĩa của từng câu một.
Tại sao quy y Phật không đọa vào địa ngục? Quy y có nghĩa là trở về nương tựa, còn Phật nghĩa là giác ngộ, sáng suốt. Như vậy quy y Phật, nghĩa là trở về nương tựa với một bậc giác ngộ sáng suốt. Qua câu nầy, nếu chúng ta chỉ hiểu đơn sơ ở phần sự tướng bề ngoài, thì không đúng. Bởi vì, hiện tại có lắm người sau khi quy y Tam Bảo rồi , họ tạo nghiệp bất thiện như cướp của, giết người v.v… Họ lại bị bắt nhốt trong lao ngục. Như thế, thì ta thử hỏi tại sao họ đã quy y Tam Bảo rồi mà họ còn phải bị đọa như vậy? Đó có phải là vì họ chỉ quy y suông, chớ họ không có gìn giữ giới cấm hay thật sự trở về với Phật.
Một người, sau khi quy y Tam Bảo, chỉ cần biết nương theo Tam Bảo thế gian, rồi cố gắng làm lành theo những lời Phật dạy, thì làm gì có xảy ra cảnh tù tội giam cầm. Đó là nói quy y theo nghĩa cạn cợt hình tướng mà còn được lợi ích như thế, hà tất gì quy y ở nơi phần lý tánh. Cho nên, người phật tử khi quy y phải biết quy y có hai phần: “Sự quy y và Lý quy y”.
Ý nghĩa trong kinh nói về Tam quy ở trên, không phải nói về Sự quy y mà nói về Lý quy y. Lý quy y là sao? Lý là lý thể, tức chỉ cho phần tánh giác sáng suốt của mỗi người sẵn có. Mỗi người chỉ cần trở về nương tựa (đấy là một cách nói theo ngôn ngữ) với tánh giác sáng suốt, thì làm gì có rơi vào địa ngục. Bởi địa ngục là nơi tối tăm (nghĩa đen) nghĩa bóng là chỉ cho tâm hồn của chúng ta bị phiền não cấu nhiễm nổi lên làm bức bách khó chịu. Đó là trạng thái bị rơi vào địa ngục. Hễ có tối tăm, thì không có sáng suốt, hay ngược lại cũng thế.
Còn ngạ quỷ là loài quỷ đói, do nhân bỏn xẻn mà có ra cái quả đau khổ đó. Nếu một người đã thật sự trở về nương tựa với chánh pháp, với tánh thể bình đẳng, trải rộng lòng từ bi thương yêu muôn loài, không có tâm keo kiết bỏn xẻn, luôn giúp đỡ cho mọi người thoát khổ được vui. Người có tâm như thế, thì làm gì đọa vào loài quỷ đói.
Còn súc sanh cũng thế, một tâm hồn si mê u tối, sống không có luân thường đạo đức, không phân biệt phải trái, tốt xấu, hành động càn bướng, đó là nếp sống của loài súc sanh. Ngược lại, người có tâm hồn sáng suốt thanh tịnh, sống theo chân lý, không chút tà tâm sái quấy, thì làm gì đọa vào súc sanh hay bàng sanh.
Nói tóm lại, người Phật tử đã thật sự quy y Tam bảo cả Sự lẫn Lý, đúng theo ý nghĩa quy y, thì bảo đảm người đó hiện đời sẽ không đọa vào tam đồ ác đạo như đã nói ở trên. Đã thế, thì sau khi họ chết, có cầu siêu hay không, không thành vấn đề. Vì hiện đời họ đã siêu rồi, tức họ đã vượt qua cảnh giới khổ đau rồi. Nhân đã như thế, thì quả cũng phải như thế. Không thể quả trái ngược lại nhân. Cho nên việc cầu siêu đó, chẳng qua làm theo lệ thường tình mà thôi. Như vậy, có cũng tốt mà không có cũng chẳng sao. Hiểu như vậy, thì không có gì là chống trái cả.