Thiền sư Thích Nhất Hạnh được nhiều người biết là một Thiền sư tài ba, giảng viên, nhà hoạt động xã hội, người vận động cho hòa bình nổi tiếng trên toàn thế giới. Bên cạnh đó ông còn là một nhà khảo cứu, nhà văn, có sức ảnh hưởng lớn đến sự phát triển Phật giáo ở phương Tây. Đường xưa mây trắng – Theo gót chân Bụt là một một tác phẩm tuyệt vời của vị Thiền sư tài ba Thích Nhất Hạnh. Cuốn sách này giúp ta nhìn nhận cuộc sống một cách sâu sắc hơn, tất cả đều xuất phát từ thực tế và cần một quá trình lĩnh ngộ, giác ngộ và lĩnh hội. Với chất văn giản dị, nhẹ nhàng rất riêng của mình, tác giả đã giúp bạn đọc dễ dàng tiếp nhận triết lý của Phật giáo. Chúng tôi xin hân hạnh giới thiệu tới độc giả cuốn sách Theo gót chân Bụt của nhà xuất bản Liên Phật Hội. Kích vào link sau:
https://xemvm.com/thu-vien-ebooks/sach-phat-giao/link-tai-sach-duong-xua-may-trang-pdf-12.html
để tải về Ebook Sách Đường xưa mây trắng - Theo gót chân Bụt hoặc liên hệ Zalo: 0926.138.186 để nhận trực tiếp file pdf.
Sau đây là Câu chuyện về Chim thiên nga trúng tên được trích từ Cuốn “Đường xưa mây trắng - Theo gót chân Bụt” của nhà xuất bản Liên Phật Hội
Ngày hôm sau, Svastika thả trâu bên bờ sông và bắt đầu cắt cỏ ngay từ buổi sáng. Đến trưa nó đã cắt cỏ xong và nhét đầy cứng hai cái giỏ. Để gánh cỏ bên này sông, Svastika lùa trâu sang bên kia sông. Bên kia sông chỉ có rừng mà không có ruộng lúa, thành ra Svastika thường cho trâu ăn bên ấy để có chút thì giờ ngả lưng trên đám cỏ non bên bờ sông gió mát. Nó chỉ đem theo chiếc liềm. Chiếc liềm đối với nó rất quý giá vì đó là phương tiện sinh sống của nó. Qua bên kia sông, Svastika dở nắm cơm mà Bala đã gói cho nó từ hồi sáng trong một tờ lá chuối. Vừa định bốc cơm ăn thì nó nhớ đến vị sa môn trong rừng. Nó nhớ đến Siddhatta. “Mình có thể đem cơm này chia xẻ với người ấy. Người ấy chắc là sẽ không chê cơm của mình là hèn mọn đâu”. Nghĩ như thế, Svastika gói nắm cơm trở lại. Nó lùa đàn trâu về ăn phía cửa rừng. Rồi nó theo lối cũ, tìm về chốn gặp gỡ chiều qua.
Từ xa, nó đã thấy dáng của Siddhatt, ngồi dưới gốc cây đại thọ pippala. Nhưng Siddhatta không ngồi một mình. Trước mặt Siddhatta còn có một người khác. Đó là một cô bé trạc tuổi Svastika, ăn mặc rất tươm tất. Cô bé vận sari màu trắng đang ngồi nhìn Svastika ăn cơm. Svastika dừng lại. Nhưng Svastika đã ngửng lên, và đã trông thấy Svastika.
- Svastika!
Người ấy vừa gọi vừa đưa tay vẫy ra hiệu cho nó lại gần. Cô bé cũng nhìn ra. Svastika nhận ra cô vé này. Nó chưa biết tên cô bé nhưng đã gặp cô bé một vài lần trên đường làng. Svastika bước tới gần. Cô bé ngồi xích ra một bên. Siddhatta chỉ một chỗ ngồi trước mặt và ra hiệu cho Svastika ngồi xuống. Trước mặt Siddhatta, có một mảnh lá chuối tươi. Trên mảnh lá chuối là một nắm cơm và một ít muối mè. Siddhattachỉ mới bẻ nắm cơm ra làm hai chứ chưa bắt đầu ăn.
- Em ăn cơm chưa? Siddhatta nhìn Svastika.
- Thưa chú con chưa ăn.
- Vậy chúng ta cùng ăn cơm với nhau cho vui được không?
Nói xong Siddhatta trao cho Svastika một nắm cơm. Svastika cung kính chắp tay nhưng không nhận. Nó đưa nắm cơm của nó ra:
- Con cũng có đem cơm theo đây.
Rồi nó mở gói cơm. Cơm của Svastika là cơm gạo đỏ không trắng trẻo như cơm của Siddhatta. Với lại nó không có muối mè. Nó chỉ vài hạt muối trắng. Siddhatta mỉm cười nhìn hai đứa trẻ:
- Vậy chúng ta gom lại và cùng ăn chung được không? Nói xong Siddhatta lấy một nửa nắm cơm hẳm của Svastika và ăn ngon lành. Svastika hơi bỡ ngỡ; nhưng thấy Siddhatta ăn cơm rất tự nhiên nó cũng đưa cơm lên ăn.
- Cơm của chú dẻo, mềm và thơm lắm, nó nói.
- Đó là cơm của Sujata đem cho, Siddhatta vừa nói vừa nhìn cô bé.
À thì ra cô bé này tên Sujata. Svastika nhìn kỹ lại. Cô bé này lớn hơn mình, có lẽ lớn hơn một hoặc hai tuổi. Hai mắt cô ta to đen lay láy. Svastika ngừng nhai, nói:
- Em có gặp chị mọt vài lần trên đường làng. Em không biết chị tên Sujata.
Sujata nói:
- Chị là con gái ông hương cả làng Uruvela. Còn em, có phải em là Svastika không? Thầy Siddhatta vừa kể chuyện em cho chị nghe xong. Này Svastika, em đừng kêu thầy Siddhatta là “chú” nữa. Thầy là sa môn mà, mình kêu thầy bằng thầy thì đúng hơn.
- Dạ.
Siddhatta ngừng nhai nhìn hai đứa trẻ mỉm cười.
- Như vậy là ta khỏi giới thiệu hai con với nhau. Này các con, thầy thường ăn cơm trong im lặng. Những hạt cơm và những hạt mè mà các con đem đến quý giá vô cùng. Ta muốn ăn cơm im lặng để thấy được giá trị của những hạt ấy Sujata, chắc con ít có dịp được ăn cơm gạo đỏ. Có thể là con đã ăn cơm rồi, nhưng con nên ăn một miếng cơm gạo đỏ của Svastika đem đến. Ngon lắm đó con. Bây giờ chúng ta nên im lặng mà ăn. Xong bữa cơm thầy sẽ nói chuyện cho hai con nghe.
Siddhatta bẻ một miếng cơm từ nắm cơm của Svastika và trao cho Sujata. Cô bé chắp tay thành búp sen, kính cẩn nhận lấy. Ba người lặng lẽ ngồi ăn cơm trong cảnh rừng trưa u tịch.
Sau khi cơm và muối mè đã hết, Sujata thu lượm các mảnh lá chuối lại. Cô lấy bình nước trong để bên cạnh, rót vào một cái bát bằng đá duy nhất mà cô đem theo và dâng lên. Siddhatta tiếp nhận bát nước và trịnh trọng đưa mời Svastika. Svastika vội nói:
- Con xin mời chú, à quên… mời thầy uống trước.
Siddhatta nhìn nó, ôn tồn nói:
- Con uống trước. Thầy muốn con uống trước. Và ông nâng bát lên bằng cả hai tay.
Svastika hơi luống cuống nhưng không còn cách nào từ chối. Nó chắp tay lại, đón lấy bát nước và đưa lên uống một mạch cạn chén, rồi trao bát lại cho Siddhatta, cũng bằng hai tay. Siddhatta chìa bát ra để Sujata rót bát thứ hai. Khi bát nước đã đầy ông nâng lên với dáng điệu cung kính và thong thả uống từng ngụm nhỏ. Uống xong bát nước, Siddhatta lại chìa bát ra để Sujata rót cho bát thứ ba. Bát này Siddhatta đưa lên mời Sujata. Sujata đặt bình nước xuống trước mặt. Cô chắp hai tay và nhận lấy bát nước. Hồi nãy đến giờ mắt Sujata không ngừng quan sát hai người. Bây giờ cô mới nâng bát nước lên và uống từng ngụm nhỏ giống như Siddhatta vừa uống. Sujata ý thức rằng đây là lần đầu tiên cô đã uống nước từ một cái bát mà một người thuộc hạng ngoại cấp đã uống. Siddhatta là thầy mình. Ông đã uống thì tại sao mình lại không uống? Tuy nhiên, cô bé không hề có cảm tưởng mình bị ô nhiễm. Bất giác cô đưa tay trái của cô ra, và sờ vào đầu tóc của cậu bé chăn trâu ngồi bên cạnh.
Cử chỉ rất bất ngờ, khiến cho Svastika không tránh kịp, Sujata đã chạm được vào đầu Svastika. Tay phải cô bé vẫn còn nâng bát nước. Sujata thu tay trái lại. Với hai tay cô nâng bát lên và uống hết nước trong chiếc bát. Cuối cùng cô bưng bát đặt xuống gốc cây, và nhìn hai người, mỉm cười.
Siddhatta gật đầu:
- Các con đã hiểu được lời ta nói. Con người sinh ra không có giai cấp. Nước mắt của người nào cũng mặn, máu của người nào cũng đỏ. Chia người ra thành giai cấp để mà kỳ thị lẫn nhau đó là một điều sai lầm. Thầy đã thấy được điều đó trong khi thầy thiền quán.
Sujata trang nghiêm:
- Chúng con là học trò của thầy và chúng con tin lời thầy dạy. Nhưng ở đời hình như không có ai nghĩ như thầy hết. Ai cũng tin rằng những người sudra và những người ngoại cấp đã được sinh ra từ bàn chân của chúa trời Phạm Thiên. Kinh điểm cũng nói như vậy. Có ai dám nghĩ khác hơn đâu.
- Thầy biết. Nhưng sự thật là sự thật, dù không có ai tin theo. Một điều sai lầm mà được hàng triệu người tin theo thì cũng là một điều sai lầm. Các con phải có thật nhiều can đảm mới có thể sống theo sự thật.
Để thầy kể chuyện này cho các con nghe. Hồi đó thầy mới có chín tuổi. Một hôm thầy đang chơi thơ thẩn một mình ở trong vườn thì có một con chim thiên nga từ trên trời rơi xuống, ngay trước mặt thầy. Con chim có vẻ đau đớn lắm. Nó quằn quại trên mặt đất. Thầy chạy tới ôm nó lên, và thấy có một mũi tên cắm sâu vào cánh nó. Thầy cầm mũi tên trong tay, ngậm miệng lại, và rút mạnh mũi tên ra. Con chim run bắn lên, và máu rỉ ra ướt đỏ cả cánh chim. Thầy vội lấy ngón tay cái ấn lên trên vết thương cho máu ngưng chảy. Ôm con chim trong tay, thầy chạy vào nhà trong đi tìm cô cung nữ Sundari. Thầy nhờ cô đi hái một nắm lá dâu nhai nhỏ và rịt lên vết thương của con chim. Con chim run rẩy. Hình như nó bị lạnh. Thầy cởi chiếc áo lông cừu ra, bọc chim vào cho chim ấm, và đặt chim gần lò sưởi.
Siddhatta ngưng lại, nhìn Svastika:
- Svastika, ta chưa nói cho con biết là hồi đó ta là hoàng thái tử con vua Suddhodana ở thành Kapilavatthu. Điều này Sujata đã biết rồi.
Thầy đang định đi kiếm cơm nguội cho chim ăn thì Devadatta đẩy cửa chạy vào, Devadatta là em chú bác của ta, hồi đó tám tuổi. Tay Devadatta còn cầm cung và tên. Devadatta hỏi:
- Siddhatta, anh có thấy một con chim trắng rơi xuống đâu đây không?
Ta chưa kịp trả lời thì Devadatta đã nhìn thấy con chim để gần lò sưởi ngự. Nó định chạy tới dành lấy con chim. Ta vội ngăn nó lại:
- Em không được lấy con chim. Con chim này là của anh.
Devadatta không chịu:
- Con chim ấy là của em. Chính em bắn nó rơi xuống.
Lúc đó ta đứng chận trước mặt Devadatta, cương quyết không cho nó rờ tới con chim. Ta nói:
- Con chim này bị thương. Anh cứu nó. Anh che chở cho nó. Nó cần anh, chứ nó không cần em.
Devadatta là một đứa em cũng cứng đầu lắm, nó có chịu thua đâu. Nó lại là một đứa trẻ thông minh. Nó lý luận:
- Này nhé, anh nghe đây. Con chim này, khi nó còn bay trên trời, thì nó không thuộc về ai cả. Em bắn nó rơi xuống, thì lý đương nhiên nó thuộc về em.
Nghe nói như thế, thầy tức lắm. Lý luận của nó có vẻ vững chãi đanh thép, nhưng thầy thấy nó có một cái gì sai sai ở trong ấy mà không biết đích xác là sai ở chổ nào. Thầy thấy nghẹn cả họng, và rất muốn thụi nó một cái thật mạnh vào vai, nhưng thầy đã không làm thế, thầy cũng không biết tại sao. Bỗng nhiên thầy tìm thấy được cách trả lời Devadatta. Thầy nói:
- Em cũng nghe anh nói đây. Thói thường, những kẻ thương yêu nhau mới ở chung với nhau, còn những kẻ ghét bỏ nhau thì không bao giờ sống chung với nhau. Em có ý dữ muốn bắn giết con chim, như vậy em và con chim là những kẻ thù ghét nhau, làm sao con chim có thể ở chung với em được. Trong khi đó, anh cứu con chim, anh rịt vết thương cho nó, anh sưởi ấm cho nó, và anh đang đi kiếm thức ăn cho nó ăn… vậy thì anh và con chim là những kẻ biết yêu thương nhau, anh và con chim có thể ở chung với nhau… như anh đã nói, con chim nó cần anh, chứ nó không cần em.
Sujata vỗ hai tay lại với nhau kêu đốp đốp:
- Thầy nói đúng lắm! Thầy nói đúng lắm!
Siddhatta quay sang nhìn Svastika:
- Còn con , con thấy lý luận của thầy thế nào?
Svastika ngẫm nghĩ. Một lát sau nó nói:
- Con … con cũng thấy thầy có lý. Nhưng con nghĩ rằng ở đời ít ai chịu chấp nhận cái lý ấy. Phần đông người ta theo lý luận của Devadatta hơn.
Siddhatta gật đầu:
- Con nói đúng. Người đời phần lớn đều hùa theo lý luận của Devadatta. Để thầy kể tiếp cho các con nghe. Cuộc tranh chấp giữa thầy và Devadatta không đi đến đâu, vì vậy sau đó được đưa ra giữa những người lớn. Hôm đó có buổi họp trong chiều. Thầy thì ôm con chim, còn Devadattathì ôm cung tên, cả hai chạy ùa vào nhờ các quan phán xử. Lúc ấy phụ vương của thầy đang ngồi ở giữa buổi chầu. Cuộc đàm luận việc nước phải được tạm ngừng lại. Các quan nghe xong lý luận của Devadatta thì nghe đến lý luận của thầy. Họ bàn tán phân vân, rất lâu, rất lâu, và chẳng đi đến kết quả gì cả. Số người theo phe Devadatta rất đông. Giữa lúc ấy thì phụ vương của thầy ngứa cổ. Ông ho lên mấy tiếng. Lập tức các quan đều im lặng. Ai cũng nhìn vua. Và sau đó, buồn cười chưa, mọi người đều nghĩ lý luận của thầy đúng hơn, và nên giao con chim cho thầy giữ. Devadatta tức lắm .
Thầy được con chim, nhưng cũng không thấy vui mấy. Bởi vì tuy còn nhỏ tuổi, thầy cũng dư sức để biết rằng sự thắng cuộc của thầy không được vẻ vang. Người ta vì nể phụ vương thầy mà cho thầy thắng cuộc chứ không phải vì họ thấy lý luận của thầy là đúng.
- Buồn quá thầy nhỉ, Sujata buộc miệng.
- Buồn thật. Nhưng lúc đó nghĩ đến sự an toàn của con chim, thầy cũng cảm thấy được an ủi ít nhiều. Nếu không thì con chim đã bị đưa xuống nhà bếp để làm thịt rồi.
Ở đời, ít người biết nhìn bằng con mắt thương yêu. Vì vậy họ ác độc với nhau, họ không tha thứ cho nhau. Hồi ấy tuy mới có chín tuổi, thầy đã thấy được điều đó. Những kẻ yếu đuối và đứng ở cô thế thường thường là dễ bị bắt nạt và làm hại. Lý luận của thầy hồi đó, bây giờ thầy vẫn thấy có giá trị. Đó là lý luận của tình thương yêu và sự hiểu biết. Đó là sự thật có thể làm vơi bớt nỗi khổ của mọi loài. Dù số đông không công nhận thì đó vẫn là sự thật. Cho nên thầy đã dặn các con: Các con phải có thật nhiều can đảm mới có thể đứng về phía sự thật mà bảo vệ sự thật.
- Còn con chim, sau đó nó ra sao, hả thầy? Sujata hỏi.
- Thầy nuôi con chim được bốn ngày. Khi thấy vết thương nơi cánh của nó đã lành hẳn, thầy đã thả nó ra. Thầy đã dặn nó bay thật xa để đừng bị Devadatta bắn rơi một lần nữa.
Siddhatta nhìn hai đứa trẻ ngồi trước mặt mình. Cả hai đứa đang ngồi trầm ngâm, không nói năng gì. Ông lên tiếng:
- Sujata, đã đến lúc con phải về nhà kẻo mẹ con đợi. Svastika, con đi chăm sóc đàn trâu của con đi. Và nếu chưa cắt đủ cỏ thì con hãy cắt. Ôm cỏ mà con cho thầy hôm qua, thầy đã trải làm nệm ngồi, tốt lắm. Đêm qua và sáng hôm nay thầy ngồi thiền rất thành công và thầy đã đạt tới nhiều cái thấy quan trọng. Công đức của con không phải là nhỏ. Chừng nào thầy đạt được đạo quả viên mãn, thầy sẽ đem dạy cho các con. Đến giờ thầy thiền tọa rồi.
Svastika nhìn xuống. Quả thật ôm cỏ đã được Siddhatta trải làm nêm ngồi. Các lá cỏ đã cuốn tròn lại nhưng chắc chắn là cỏ còn mềm. Cậu bé nghĩ là cứ ba hôm một lần, cậu có thể dâng cho thầy một ôm cỏ mới. Cậu đứng dậy cùng với Sujata, cậu chắp tay vái chào Siddhatta Sujata về nhà, còn Svastika thì lùa trâu về lại bờ sông cho trâu ăn cỏ.
Để đọc online trọn bộ Sách Theo gót chân Bụt kích vào đây. Hãy ủng hộ website bằng cách truy cập lịch vạn niên trên xemvm.com. Lịch vạn niên của chúng tôi không chỉ có các tính năng cơ bản như đổi lịch dương sang lịch âm, lịch can chi, lịch tiết khí, xem ngày giờ Hoàng Đạo – Hắc Đạo, xem ngày theo Ngọc hạp thông thư, xem ngày theo nhị thập bát tú mà còn có nhiều tính năng nâng cao khác như xem ngày xung khắc với tuổi, xem ngày theo Kinh Kim Phù, Xem ngày theo Lục Diệu, xem ngày theo Đổng Công tuyển nhật (12 trực), Bành Tổ kỵ nhật, xem ngày xuất hành theo Khổng Minh, chọn hướng tốt xuất hành, xem giờ tốt theo Lý Thuần Phong, Quỷ Cốc Tử, xem ngày tốt xấu theo dân gian…nên vinh dự được độc giả bình chọn là phần mềm lịch vạn niên số 1 hiện nay. Phiên bản lịch vạn niên 2023 hoàn toàn mới của chúng tôi không những giao diện đẹp, dễ sử dụng mà còn luận giải chính xác và chi tiết từng mục giúp độc giả dễ dàng lựa chọn được ngày tốt, giờ đẹp để khởi sự công việc. Hãy thử một lần để cảm nhận sự khác biệt so với các phần mềm lịch vạn sự khác.
Lịch vạn niên - Chọn giờ tốt ngày đẹp
Con bạch Thầy! Kính thưa thầy, nhà con không có thờ Phật, chỉ có bàn thờ ông bà, mặc dù con rất tin tưởng Phật Pháp, nhưng vì hoàn cảnh gia đình chật chội, nên con không có lập bàn thờ Phật. Vậy xin hỏi: con có tụng kinh được không ?
@Phạm Đỗ Hoàng Long Tôi xin được trích dẫn câu trả lời từ cuốn sách “100 Câu Hỏi Phật Pháp Tập I” của Tỳ Kheo Thích Phước Thái cho câu hỏi này để bạn tham khảo: Xin thưa ngay là được, không có gì trở ngại. Tuy nhiên, ở đây, chúng tôi cũng xin góp thêm chút ý kiến nói rộng hơn về vấn đề nầy. Đứng về phương diện hình thức sự tướng lễ nghi mà nói, thì khi tụng niệm bái sám, Phật tử cần phải có thiết lập bàn thờ Phật và phải tôn thờ Ngài nơi chỗ trang nghiêm thanh tịnh.
Phật hay Bồ tát, tuy là hình tượng, nhưng người Phật tử phải luôn kính trọng tôn thờ. Ta tôn thờ Phật là vì ta nhớ đến công ơn giáo hóa của Ngài. Vì Ngài là người giác ngộ hoàn toàn. Tuy Phật đã nhập diệt rất lâu xa, nhưng Ngài còn để lại cho chúng ta một kho tàng kinh điển vô giá, gồm có ba tạng kinh điển. Nhờ đó mà chúng ta mới nghiên cứu học hỏi và mới biết được đường lối tu hành thoát ly sanh tử khổ hải. Như vậy, công ơn của Ngài thật quá lớn lao, không sao kể xiết. Thế nên người Phật tử sau khi quy y, nghĩ đến công ơn lớn lao đó của Ngài mà ta nên thỉnh tượng Phật về nhà để tôn thờ.
Thờ Ngài với mục đích chính là để chúng ta ra vô thấy hình tượng của Ngài để chúng ta bắt chước noi theo tấm gương công hạnh cao cả giác ngộ giải thoát của Ngài. Để từ đó, chúng ta cố gắng thật hành theo những gì mà Ngài đã chỉ dạy. Chúng ta nên đem những lời dạy đó mà ứng dụng trong đời sống thực tế hằng ngày. Có thế, thì việc thờ Ngài mới được lợi ích. Và thờ Phật như thế mới đúng với ý nghĩa thờ Phật.
Ngược lại, nếu ta thờ Phật, Bồ tát để mong cầu các Ngài ban ơn giáng phước, hay trừ tà giải nạn, gia hộ độ trì cho mọi người trong gia đình luôn được mạnh khỏe, quanh năm suốt tháng gia đạo luôn được bình an, không xảy ra tai họa. Thờ Phật hay Bồ tát như thế thì thật là một sai lầm rất lớn. Thờ với quan niệm như thế, có khác nào xem Phật hay Bồ tát như là một vị thần linh. Tệ hơn nữa, có người còn lo cúng kiến như lo lót hối lộ cho các Ngài phù hộ. Nếu không được như ý, thì các Ngài không linh. Phật hay Bồ tát là những người giác ngộ, mà ta lại xê dịch biến các Ngài qua vị trí trở thành Thần linh gia hộ. Thật là quá mê lầm tội lỗi! Thế nên, người Phật tử khi thờ Phật hay Bồ tát, cần phải học hỏi hiểu rõ ý nghĩa của sự tôn thờ nầy. Nếu không, thì chúng ta sẽ mang trọng tội với các Ngài.
Tại sao Phật tử lại thờ kính ông bà? Có phải Phật tử vì nghĩ đến công ơn sanh thành giáo dưỡng sâu nặng của cha mẹ ông bà mà Phật tử tôn thờ hay không? Cha mẹ ông bà chỉ là người cho ta cái hình hài thể chất nầy mà ta còn phải nhớ ơn quý kính tôn thờ như thế, huống gì đối với đức Phật đã chỉ dạy cho ta có thêm nhiều trí huệ sáng suốt và vạch bày cho chúng ta một con đường giác ngộ giải thoát vĩnh viễn không còn sanh tử khổ đau. Như thế, thì thử hỏi ân đức của Ngài đối với chúng ta lớn lao đến bực nào? Vì thế việc thờ Phật ở trong gia đình đối với người Phật tử tại gia cũng rất là thiết yếu quan trọng.
Trở lại câu hỏi của Phật tử, Phật tử tuy có lòng tin tưởng Phật pháp, nhưng vì gia cảnh chật chội nên không thể thiết lập riêng bàn thờ để thờ Phật. Mặc dù Phật tử không có thờ Phật, nhưng vẫn có thờ ông bà. Việc thờ cúng tổ tiên ông bà là một điều rất tốt theo phong tục truyền thống hiếu đạo của người Việt Nam. Việc thờ phụng ông bà đó là điều rất quý tôi hết lòng tán dương Phật tử.
Nếu gia cảnh của Phật tử chật chội, không thể thiết lập một bàn thờ Phật riêng, nhưng khi tụng niệm lễ bái, thì Phật tử cũng có ý muốn là có hình tượng Phật để chiêm ngưỡng lễ bái. Theo tôi, thì Phật tử nên linh động, thay vì đã có bàn thờ ông bà, thì tại sao Phật tử không thờ Phật ở trên. Phật tử nên tìm cách tạo phương tiện như thế nào đó cho nó thích hợp. Nghĩa là vừa thờ ông bà mà cũng vừa thờ Phật.
Như thế, thì được lưỡng lợi cả hai. Vì ông bà cũng phải tôn kính Phật, nên thờ Phật ở tầng trên, và thờ ông bà ở tầng dưới, như thế có gì là thất kính mà có lỗi đâu. Và thờ như thế cũng đâu có chiếm thêm vị trí nào khác mà chật chội. Tại vì hoàn cảnh mình phải làm như thế. Phật và ông bà không có trách cứ Phật tử đâu, ngược lại, chẳng những không trách cứ mà các vị đó còn thương xót Phật tử nhiều hơn nữa. Vì biết Phật tử là người có tấm lòng tốt, chí hiếu, nhưng vì gia cảnh chật chội phải thờ phụng như thế mà thôi.
Tôi thành thật khuyên Phật tử nên làm như thế. Vì có thờ Phật, khi Phật tử tụng niệm bái sám, nhìn thấy hình tượng tướng hảo của Phật hay Bồ tát, thì nó càng tăng thêm niềm tin và lòng quy kính của Phật tử hướng về Tam Bảo. Và do đó, việc tụng niệm của Phật tử càng có thêm sự tha thiết chí thành. Nhờ đó mà lòng của Phật tử càng cảm thấy vui tươi an lạc dịu hiền tươi mát hơn. Đây cũng là một điều rất hệ trọng cho đời sống tâm linh, xin Phật tử hãy quan tâm suy xét lại cho thận trọng kỹ càng.
Đó là nói theo phần sự tướng bên ngoài, còn luận về lý tánh bên trong, thì Phật tử thường xoay về tự tâm quán chiếu từng giây phút không cho phiền não phát sanh, như thế thì Phật tử đang thờ Phật và thật sự tôn kính ông Phật của Phật tử rất mực rồi. Vì mỗi người đều sẵn có ông Phật. Thờ Phật ngoài để làm sáng tỏ Phật tự tâm của mình. Thờ Phật như thế, mới đúng là « Sự Lý viên dung ». Và thờ Phật như thế, mới thật sự đúng với ý nghĩa thờ Phật. Kính mong Phật tử phải thờ Phật cả hai như thế. Có thờ như thế, thì mới mong thoát khổ. Còn nếu chỉ biết có ông Phật ở bên ngoài không thôi, thì thật sự chưa đúng với ý nghĩa thờ Phật vậy.